Thông tin trên vừa được một báo cáo mới nhất của Cơ sở dữ liệu tổn thương quốc gia Mỹ (NVD) tiết lộ. Theo đó, trong năm 2014, OSX là một hệ điều hành có khả năng bị tổn thương nhất, tiếp đó mới tới iOS, Linux, Microsoft Windows Server 2008, Windows 7, Windows Server 2012, Windows 8, Windows 8.1, Windows Vista, và Windows RT.
OS X có nhiều lỗ hổng bảo mật nhất.
Cụ thể, OS X của Apple được tìm thất có 147 lỗ hổng bảo mật, trong khi iOS có 127, Linux có 119, Windows Server 2008 có 38, còn Windows 7 chỉ có 36. Báo cáo cũng cho biết, có tất cả 7.038 lỗ hổng mới đã được phát hiện trong năm qua, với chỉ số trung bình có 19 lỗ hổng được phát hiện mỗi ngày.
Trong hàng nghìn lỗ hổng mới này có tới 80 phần trăm đến từ các ứng dụng của bên thứ ba, 13 phần trăm từ các hệ điều hành và 4 phần trăm thông qua các thiết bị phần cứng. Điều đáng nói, con số lỗ hổng này lại vượt xa so với năm 2013, chỉ có 4.794 lỗ hổng. Không chỉ thế, trong số 7.038 lỗ hổng thì có tới 68 phần trăm thuộc loại nghiêm trọng trung bình, 24 phần trăm thuộc loại nguy cơ cao và chỉ có 8 phần trăm ở mức độ thấp.
Lỗ hổng bảo mật của các ứng dụng.
Báo cáo của NVD đã thực sự gây ra sự ngạc nhiên khi Microsoft Windows vốn vẫn được xem là hệ điều hành dễ tổn thương nhất, trong khi OS X thì vẫn được tin là có độ bảo mật tốt nhất. Trong khi đó các ứng dụng dễ bị tổn thương nhất lại là Microsoft Internet Explorer.
Theo các chuyên gia bảo mật, để giữ cho hệ thống được an toàn, điều quan trọng là các lỗ hổng cần được vá lỗi đầy đủ. Các nhà quản trị công nghệ thông tin nên tập trung vào một số hệ thống để sửa chữa như: các hệ điều ảnh, ứng dụng trình duyệt web, Java và các sản phẩm Adobe miễn phí (như Flash Player, Reader, Shockwave Player, AIR).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét